Lịch sử làng nghề sơn đồng

Làng nghề Sơn Đồng đã hình thành và phát triển được hơn 1.000 năm, kể từ khi nền văn hoá Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam. Trong thời kỳ phong kiến, Làng nghề có hàng trăm người thợ được phong Tước bá hộ kỹ nghệ (nay gọi là nghệ nhân). Các dấu ấn vật thể 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội đều có đôi bàn tay tài hoa của người nghệ nhân Sơn Đồng tham gia như Văn miếu Quốc Tử Giám, Khuê Văn Các, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc, chùa Một Cột…

Làng nghề mỹ nghệ Sơn Đồng từng bị mai một vào những năm kháng chiến chống Mỹ và thời kỳ bao cấp, nhưng sau đó đã được các nghệ nhân Nguyễn Chí Dậu và Nguyễn Đức Cường khôi phục vào năm 1983. Cụ Nguyễn Chí Dậu, nghệ nhân từ thời thuộc Pháp đã quyết định khôi phục nghề truyền thống bằng việc đứng ra tổ chức lớp học nghề chạm khắc gỗ và sơn mài, cốt là để truyền nghề cho con cháu. Hơn 30 học viên ngày đó, bây giờ đã trở thành những người thợ giỏi, chủ cơ sở sản xuất lớn trong làng và đang tiếp tục truyền nghề cho thế hệ trẻ. Đến nay, nghề truyền thống của làng chủ yếu mang tính gia truyền bằng miệng, chứ không có sách vở nào, bố truyền cho con, con truyền cho cháu, cứ thế nối tiếp thế hệ trước cho thế hệ sau. Trải qua những thăng trầm để tồn tại một làng nghề nghìn năm tuổi, ngày nay, người dân Sơn Đồng đã lấy ngày 6-2 âm lịch hàng năm là ngày hội làng, con cháu ở khắp nơi về sum họp, tế lễ thành hoàng làng.

Hiện nay, cả xã có hơn 4.000 nghìn lao động làm nghề thủ công mỹ nghệ thường xuyên, trong đó có đến hơn một nửa là thợ giỏi và nhiều thợ giỏi được tôn vinh, phong danh hiệu nghệ nhân. Sản phẩm của Làng nghề mỹ nghệ Sơn Đồng chiếm khoảng trên 50% thị phần toàn quốc về tượng và đồ thờ cúng sơn son thếp vàng, thếp bạc phủ màu hoàng kim, phục vụ mảng đời sống văn hoá tâm linh, tín ngưỡng của người dân. Điều đáng nói là khách hàng cần đặt làm bất cứ pho tượng thờ nào thì người thợ nơi đây đều làm được ngay mà không cần mẫu sinh kề (mẫu có sẵn). Các pho tượng đều trở nên có hồn qua đôi bàn tay khéo léo của người thợ. Để làm được điều đó, đòi hỏi người thợ phải có kinh nghiệm, hiểu được các điển tích, tính cách, chức vụ, vị trí của từng pho tượng trong tâm thức để rồi thổi hồn vào các tác phẩm.

Quy trình chế tác

Về quy trình chế tác, ngoài công thức chung kế thừa của cha ông thì mỗi nghệ nhân ở Sơn Đồng cũng có những thủ pháp, những bí truyền với cách phân, quân tỷ lệ không hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn một nghệ nhân khi đục pho tượng Phật bà Quan Âm ngồi thường là đục bốn diện (khuôn mặt tính từ chân tóc tới cằm gọi là “mặt diện”. Trong giải phẫu tạo hình hiện đại gọi là “một đầu”). Nhưng cũng có khi Phật ngồi chỉ có ba diện rưỡi, hoặc bốn diện rưỡi. Cũng có khi làm một pho tượng đứng phải “dựng” tới bảy diện. Điểm chung giữa các nghệ nhân khi làm tượng là đều lấy diện (bằng một đầu) làm chuẩn để tính tỷ lệ. Tỷ lệ tượng ngồi bằng bốn diện và tượng đứng bằng bảy diện. Ngoài ra, về chiều cao thân tượng thì phải tuân thủ theo một số công thức sau: rộng vai tượng: từ 2 đến 4 diện; dài tay: 3 diện; bề dày thân từ 1,5 đến 2 diện. Công thức đó có xê dịch tùy theo tượng béo hay gầy, tượng nam hay nữ (tượng béo có độ dày thân tượng cao, tượng nam vai rộng hơn tượng nữ…).

Một người thợ cho biết, đục tượng bao giờ cũng bắt đầu từ việc chọn gỗ. Nguyên liệu để làm tượng Phật là gỗ mít, đây là chất liệu duy nhất được phát hiện và tin dùng từ lâu. Gỗ mít có đặc tính dẻo, mềm, thớ dặm, nhờ đó tránh được những sơ suất trong khi đục. Gỗ mít còn có độ bền cao, ít nứt, dễ gọt. Người dân Sơn Đồng phải mua nguồn gỗ mít từ các tỉnh như Phú Thọ, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An… Gỗ chở về loại bỏ hết phần giác, chỉ dùng lõi để đục. Sau đó, người thợ dùng dây đo thể tích để cắt phần gỗ: chiều cao, chiều ngang và bề dày (kích thước của một khối hình), rồi đến cắt “dưỡng” – hình mẫu cắt theo “công tua” hai chiều: chiều nghiêng (nhìn mặt bên tượng) và chiều đứng (nhìn chính diện). Phần gia công đầu tiên là đầu và mặt tượng. Đục phác thảo những khối mũ (nếu có) rồi trán, mũi, môi, tai… Trên khuôn mặt tượng, người thợ cũng phân chia từng mảng, diện như khoảng cách giữa hai con mắt, từ chân tóc tới chân mày, chiều dài sống mũi, bề rộng cánh mũi, khoảng cách giữa môi trên và môi dưới, từ môi dưới tới cằm, độ dày của môi… Đặc biệt là tai Phật, phải tính đặt cân đối hợp lý trong khoảng cách từ chân tóc (2 bên đầu) tới cằm. Sau khi đục phác lấy dáng chung một lượt suốt từ diện tới bệ, đến khâu đục chi tiết, người thợ cũng thể hiện dần từng bộ phận. Khâu này được coi là quan trọng nhất trong cả quá trình hoàn thành pho tượng. Cuối cùng là khâu gọt, nạo, rồi đánh giấy ráp cho nhẵn. Trong khi gọt, người thợ dùng loại đục dẹt, mỏng để tách các chi tiết, sao cho các mảng các khối (chân tay và các ngón) khỏi “dính” vào nhau, nhất là phải thể hiện kỹ các đường lượn, mảng miếng. Gọt nạo là khâu hoàn chỉnh phần gỗ trước khi chuyển sang phần sơn.

Kỹ thuật sơn son thếp vàng tượng cũng kỳ công như nghệ thuật làm vóc sơn mài. Đầu tiên “hom” tượng bằng sơn trộn đất phù sa (tỷ lệ sao cho không được non sơn, cũng không được già quá) rồi “bó” bằng sơn sống rồi sơn “thí”. Sau mỗi công đoạn đều phải mài tượng bằng đá và nước. Sơn lên rồi lại mài đi, rồi lại sơn lên…, cứ thế, bao giờ thấy bề mặt tượng phẳng nhẵn và mọng lên thì dùng một lớp sơn (gọi là sơn cầm thếp) phủ lên. Để sơn cầm thếp se (sờ tay thấy còn hơi dính) thì dán bạc hoặc dán vàng (bạc, vàng quỳ) tùy theo yêu cầu của khách. Quỳ là một loại bột từ vàng, bạc miết trên một tờ giấy mỏng (giấy quỳ). Người ta đem những lá vàng, lá bạc (loại cao tuổi) dát mỏng cắt thành những mảnh vuông, xếp vào giữa những tờ giấy, rồi dùng búa nện đều cho đến khi vàng tan thành bột. Theo ông Nguyễn Chí Quảng – ở xóm ngã tư, thì để làm xong pho tượng to phải mất 40 công, còn tượng nhỏ khoảng 5 – 10 công, nguyên liệu để làm tượng, đồ thờ, ngoài gỗ mít còn có gỗ dổi, vàng tâm. Làm tượng là khó nhất, người thợ phải thổi được hồn vào pho tượng, nhìn có dáng, khách trông thấy là nhận ra ngay là ông tượng nào…

Tiếng thơm vang xa

Thành quả mà những người thợ Sơn Đồng thu được sau bao ngày đêm miệt mài bên xưởng gỗ là tiếng thơm không chỉ vang danh khắp mọi miền tổ quốc, mà còn vang xa tới nhiều quốc gia trên thế giới, nhắc đến tượng Phật là người ta nghĩ ngay đến Sơn Đồng. Với đôi bàn tay tài hoa, những người thợ làng Sơn Đồng đã cho ra đời nhiều tác phẩm nghệ thuật đòi hỏi độ tinh xảo cao như bức: tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay, tượng hộ pháp, tượng thập bát La Hán, kiệu bát cống… Đi đến đâu trong cả nước, du khách đều bắt gặp các tượng thờ do người thợ Sơn Đồng chế tác. Một nghệ nhân cao niên tự hào là người đã tạc được hàng trăm pho tượng có giá trị cung cấp cho các chùa Quán Sứ, Liên Phái, Trấn Quốc, Hương Ký (Hà Nội), chùa Hương, chùa Trăm Gian (Hà Tây cũ) và nhiều chùa khác trên mọi miền tổ quốc. Cũng có những người thợ trẻ đã mạnh dạn làm các bức tượng cao từ 3,5m – 4,5m, đây là một kỷ lục mà trước đó chưa ai làm. Tiếp nối truyền thống cha ông, song các thợ trẻ cũng biết sáng tạo, đổi mới cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Những lớp thợ trẻ giờ đây không chỉ kế thừa những nét tài hoa về tay nghề, mà còn rất năng động trong cơ chế thị trường.

Về Sơn Đồng hôm nay, du khách sẽ được tận mắt chứng kiến quy trình chế tác tượng phật, các mẫu bàn thờ đẹp, đồ thờ cúng và được hòa mình trong bản “bản nhạc” làng nghề với tiếng lách cách của người thợ đục tượng, tiếng máy cưa xoèn xoẹt âm vang khắp ngõ xóm. Quả thực, khi được chứng kiến thì mới thấy hết nỗi vất vả, khó nhọc của người thợ, khi mỗi tác phẩm nghệ thuật hoàn thành đều ẩn chứa trong đó mồ hôi, trí tuệ của những người thợ chân đất. Nhiều người dân Sơn Đồng hôm nay phải thốt lên rằng, chính cái nghề nghìn năm tuổi của cha ông đã giúp họ làm giàu, giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động, trong khi đồng đất đang bị thu hẹp bởi tốc độ đô thị hóa cao. Bà con vẫn thầm cảm ơn các nghệ nhân đã góp phần khôi phục làng nghề, có những hộ làm nghề từ nhiều đời nay đã viết tiếp trang sử làng nghề Sơn Đồng. Có những người thợ năm xưa nay đã trở thành những ông chủ xưởng lớn của làng, với 3 xưởng sản xuất, hoạt động quanh năm lúc nào cũng có từ 40 – 50 thợ làm thuê.

Đến nay, cả xã có hơn 5 hộ thành lập công ty để xúc tiến thương mại, ký kết với khách hàng trong và ngoài nước. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều người thợ Sơn Đồng còn làm cả tượng chân dung, tượng mỹ nghệ để xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu của các đối tác nước ngoài. Không ít Việt kiều sau khi đến tham quan làng nghề Sơn Đồng đã đặt hàng, thậm chí còn mời những người thợ ra nước ngoài để xây chùa, đình phục vụ cộng đồng người Việt ở đó. Giờ đây, giá trị của những bức tượng được nâng lên hơn trước rất nhiều, có một số bức tượng khách hàng đặt mua tới hơn 100 triệu đồng.

Sự phát triển mạnh mẽ của làng nghề Sơn Đồng những năm gần đây đồng nghĩa với nhu cầu về mặt bằng sản xuất phải được mở rộng hơn nữa. Không ít hộ muốn mở rộng sản xuất nhưng do không có đất nên đành “lực bất tòng tâm”. Vì vậy, để duy trì và phát triển làng nghề Sơn Đồng có tính bền vững, chính quyền các cấp cần quy hoạch làng nghề, tạo điều kiện hơn nữa cho các hộ dân mở rộng sản xuất, góp phần làm giàu cho quê hương, đất nước, tạo việc làm ổn định cho người lao động trong xã. Người dân Sơn Đồng mong muốn những chính sách khuyến khích, hướng dẫn phát triển làng nghề đi vào cuộc sống của làng nghề cần hiệu quả hơn nữa. Các văn bản hướng dẫn cần cụ thể, chi tiết hơn, để người lao động làm nghề tiếp cận được các chính sách hỗ trợ và phát triển làng nghề. Những hội nghị của Nhà nước, các cấp bàn về các vấn đề phát triển làng nghề nên có thêm thành phần là người làm nghề tham gia, để họ nói lên được tiếng nói thiết thực của người làm nghề, góp phần xây dựng, hoạch định chính sách về việc phát triển làng nghề được sát hơn.

Theo aip.gov.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *