Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ, Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh là một trong những vị quan quyền uy và linh thiêng nhất. Hình tượng Ngài gắn liền với sức mạnh của thủy phủ, sự công minh, trừ tà diệt quái và giải oan nghiệp cho trần gian. Bởi vậy, Bản văn Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh trở thành một phần quan trọng trong nghi lễ hầu đồng, mang âm hưởng cổ kính, thiêng liêng, tái hiện công lao và hành trạng của Ngài qua từng câu chữ.

Bản văn Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh Lời văn linh thiêng trong nghi lễ hầu đồng

Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh là ai?

Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh, thường được gọi là Ông Lớn Tuần Tranh hoặc Đệ Ngũ Vương Quan, là vị quan đứng hàng thứ năm trong hệ thống Ngũ Vị Tôn Quan của tín ngưỡng Tứ Phủ. Ngài được coi là một trong những vị quan linh thiêng bậc nhất, có quyền năng lớn và giữ vai trò quan trọng trong việc cai quản, bảo vệ và trấn giữ vùng sông nước.

quan lon de ngu tuan tranh 12

Trong dân gian, Quan Đệ Ngũ được biết đến là vị thần cai quản sông Tranh, một vùng duyên hải rộng lớn, giàu yếu tố thủy khí. Ngài không chỉ là vị thần sông nước mà còn là danh tướng tài ba trong truyền thuyết, có công dẹp loạn, trừ yêu quái và bảo vệ cuộc sống bình an cho người dân ven sông biển. Với bản tính cương trực, trung nghĩa và mạnh mẽ, Ngài được coi là bậc quan lớn xử lý mọi việc công minh, giải oan sai và chứng tấu sớ trình của trần gian lên cửa Thượng Thiên.

quan lon de ngu tuan tranh 5

Không chỉ vậy, Quan Lớn Đệ Ngũ còn được xem là vị anh linh có quyền "thống lĩnh thiên địa binh", trông coi việc thu nhận kim ngân, tài mã, và hóa giải nghiệp duyên cho người hữu duyên. Chính vì quyền năng rộng lớn và tính linh ứng, Ngài được thờ phụng tại nhiều đền phủ trên khắp miền Bắc, đặc biệt là Đền Tranh (Hải Dương) và Đền Kỳ Cùng (Lạng Sơn).

Trang phục khi ngự đồng của Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

Trong nghi lễ hầu đồng, khi giáng bóng, Quan Lớn Đệ Ngũ thường xuất hiện trong trang phục lam - màu tượng trưng cho hành Thủy mà Ngài cai quản. Bộ y phục bao gồm áo lam thêu rồng và hổ phù, kết hợp mạng lam và đai lam toát lên vẻ uy nghi, hùng dũng của một vị quan thủy quân.

quan lon de ngu tuan tranh 4

Khi ngự đồng, Ngài cầm thanh long đao - pháp khí biểu tượng cho quyền lực, sự trừng phạt cái ác và khả năng dẹp trừ tà quái. Trong buổi lễ, Quan Đệ Ngũ thường múa đao mạnh mẽ, dứt khoát, thể hiện khí chất của danh tướng và quyền năng trấn giữ thủy bộ. Sau khi kiểm soát và chứng đàn lễ, Ngài mới cho phép tiến hành nghi thức hóa mã, mang lại sự bình an, sáng sủa và hanh thông cho người dự lễ.

Bản văn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Bản văn Quan Lớn Tuần Tranh số 1

Đệ tử con khấu đầu cung thủ

Tiến văn chầu Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

Hát dọc

Ninh Giang chính quán quê nhà ,

Danh lam thắng tích một toà ngôi cao.

Uy ra lẫm liệt tung hoành

Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài.

Cảnh Thiên thai Quan Tuần ngự giá,

Các tiên nàng thứ tự dâng hoa.

Chầu thôi lại trở ra về,

Truyền quân dâng nước Thuỷ Tề chan chan .

Cảnh am thanh nhiều bề lịch sự,

Vốn đặt bầy tự cổ vu lai.

Có phen xuất nhập trang đài,

Đào lan quế huệ xum vầy xướng ca.

Hát phú:

Nước Văn Lang vào đời Thục trị,

Giặc Triệu Đà cố ý xâm lăng,

Triều đình ra lệnh tiến binh,

Thuyền bè qua bến sông Tranh rợp trời.

Bỗng nổi trận phong lôi bão táp

Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh

Hỏi ra mới biết sự tình

Thiết bày hương án lễ trình bên sông.

Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm

Khấn vừa xong gió lặng sóng yên

Uy linh sự đã hiển nhiên

Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông.

Gương anh khí sáng ngời muôn thủa

Trí hào hùng rạng rỡ non sông

Vinh quang thay nòi giống tiên rồng

Muôn dân còn ghi nhớ Quan Lớn Tuần tài cao.

Đấng anh hào cổ kim lừng lẫy

Khắp mọi miền đã dậy thần cơ

Nhân dân trung nam bắc phụng thờ

Ninh Giang lại nổi đền thờ Quan Tuần Tranh.

Công hộ quốc gia phong Thần thượng đẳng,

Tước phong hầu truy tặng Đại vương,

Bảng vàng thánh thọ vô cương

Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.

Hát thơ

Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh,

Non nước còn ghi trận tung hoành,

Lẫm liệt oai hùng đao tráng sĩ,

Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.

Hỡi ai có về qua bến sông Tranh,

Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.

Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,

Sông Tranh còn đó, ơn người mãi còn ghi.

Loa đồng hỏi nước sông Tranh,

Long đao cứu nước, anh hùng là ai?

Sông Tranh đáp tiếng trả lời,

Là Quan Đệ Ngũ, chính người Ninh Giang.

Nước sông Tranh đêm ngày vẫn chảy

Sóng tuôn trào cuồn cuộn về đâu

Chúng con nhớ người tráng sĩ lập lên công

Ngàn năm ghi nhớ Quan Tuần tài kiêu

Ngựa chiến xông pha đao thần ra trận

Sinh tử vì đời trung hiếu đạo vua tôi

Hát Oán

Nào ngờ đâu khi đất trời thay đổi,

Người anh hùng cổ nặng xiềng gông.

Ngày hai mươi lăm tháng năm, Quan lớn bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng.

Quan lớn oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.

Trước cung điện, triều đình tra xét,

Bắt long hầu truyền đi khắp mọi nơi.

Quan Lớn oan vì ong bướm lả lơi,

Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.Lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,

Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.

Hoàng bào đã nhuộm chàm xanh

Tấm thân đành để nhục vinh lẽ thường.

Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ

Hỏi trăng già có tỏ trăng ơi

Hỏi mây hỏi gió hỏi trời

Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu.

Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,

Vẫn vươn mình há ngại phong ba.

Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,

Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng .

Thà thác vinh còn hơn sống nhục,

Nước sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn .

Kiệt cùng hiu hắt trăng non

Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng.

Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt

Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong

Lòng riêng đã quyết với lòng

Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời.

Rừng hoa cỏ thương người đã khuất

Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa

Nỗi oan chuyển động đất trời

Dây oan kia kết lại thành đôi bạch xà .

Đất Ninh Giang tìm nhà hữu phúc

Thử lòng người trong lúc lánh thân

Tháng hai vừa tiết trung tuần

Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay

Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ

Đôi bạch xà tựa cửa hai bên

Long xà kì dị thảo hiền

Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà.

Ba tháng sau đàn gà đã hết

Thương rắn hiền không biết lo sao

Khó khăn âu cũng tính liều

Ông bà nông lão sớm chiều đông tây.

Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi

Hai ông bà mắc tội cửa công

Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng

Tậu gà nuôi rắn không dung tội này.

Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể

Thương rắn thần tựa thể thương con

Khấu đầu tạ trước công môn

Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng.

Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy

Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông

Long xà thoát xuống thuỷ cung

Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan.

Khắp duyên hải sấm ran từ đấy

Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi

Những phường bán nước hại nòi

Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha.

Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc

Tội gia hình bõ lúc sai ngoa

Lẽ thường tội báo oan gia

Hại nhân nhân hại sự đà không sai.

Nước Văn Lang vào đời Thục trị,

Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,

Triều đình ra lệnh tiến binh,

Thuyền bè qua bến sông Tranh rợp trời.

Bỗng nổi trận phong lôi bão táp

Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh

Hỏi ra mới biết sự tình

Thiết bày hương án lễ trình bên sông

Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm

Khấn vừa xong gió lặng sóng yên

Uy linh sự đã hiển nhiên

Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông.

Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,

Tước Long hầu truy tặng Đại vương,

Bảng vàng thánh thọ vô cương

Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.

Hát oán Quan Lớn Tuần Tranh

Con tìm về ninh giang nghe nỗi oan Quan Tuần ôi xót xa.

Một đấng nam nhi anh hùng đâu có màng chuyện đời ong bướm.

Một đời vì non sông mang sức trai giữ trọn chữ hiếu trung.

Đâu có ngờ đất nổi cuồng phong.

Sấm chớp vang trời mới biết đâu là tình thâm.

Lệnh lưu đày ban ra đi tới tới phương trời xa.

Hiu hắt bao đêm ngày kì cùng quan san.

Ơi hỡi trời cao.

Oan trái này ai có ngờ đâu có ngờ chuyện xưa sắp đặt.

Giữa tiết tháng năm sông Kỳ Cùng.

Cuồng phong nổi lên đón người tráng sỹ.

Tích xưa lưu truyền ghi dấu để ngàn thu.

Nỗi oan quan tuần kỳ cùng còn ghi nổi dấu thiêng

Hát kiều dương Quan Lớn Tuần Tranh

Trên bát ngát long chầu hổ phục

Dưới tam đầu cửu vĩ chầu lên

Lân rờn phượng múa đôi bên

Quan Tuần trắc giáng ngự lên sập rồng.

Sắc vua phong kiêm chi tam giới

Hay tróc tà sát quỉ trừ tinh

Quan Tuần vạn phép muôn linh

Quyền ngài cai quản thiên binh nhà trời.

Ngự đồng ai mình quyền bóng quý

Nương uy trời thụy khí đoan trang

Quan Tuần hiển hách uy vang

Ra tay tế độ trần gian được nhờ.

Lúc bấy giờ ngài ra uy hùng hổ

Nương oai trời cứu độ muôn dân

Đùng đùng nổi trận phong vân

Ngự đồng ban phép cứu dân trừ tà.

Cánh dấu thiêng đem về mà trấn

Ai có tà xin quan trục tà ra

Dù ai vận hạn chưa qua

Kêu quan đệ ngũ bệnh đà tan ngay.

Nay dốc lòng ơn ông vạn bội

Hoặc ai mà nhầm lỗi truyền tha

Hay là cách trở sơn hà

Cầm cờ chỉ núi núi đà tan không .

Tiếng nức danh tung hoành dũng lược

Cảnh non bồng nước nhược bồng lai

Khi chơi bạn trúc bạn mai

Bạn loan tiệc ngọc xum vầy xướng ca.

Các bộ nàng ra tay bẻ quế

Quan dạo chơi thành thị hồ tiên

Ba ngàn thế giới dư thiên

Tiếng quan đệ ngũ khắp miền đông tây.

Bốn phương trời đội ơn đức cả

Ai có lòng quan hỉ xả từ bi.

Thiên sinh văn võ gồm tài

Quan tuần lịch sự đáng trai anh hùng.

Hát mười nguyện xin lộc Quan Lớn Tuần Tranh

Nay con nguyện tích trữ công đức, cúi xin ông nhỏ phúc hà sa.

Độ cho nam nữ trẻ già, độ cho non nước nhà nhà được hưng long.

Một nguyện ngài giáng phúc trừ tai

Đồng gia bản hội ai ai cũng thịnh cường.

Nguyện thứ hai buôn bán đủ trăm đường

Tiền tài lưu loát bạc vàng đề đa.

Nguyện thứ ba công hầu các lễ

Hộ tiểu con phú quí sang giàu

Độ tiểu con nay sống dài lâu

Nhờ ơn quan lớn phúc lâu giầu bền.

Bốn con nguyện giữ lòng trong sáng

Xám hối quan chẳng dám đơn sai.

Xin quan hạ bút hoa khai

Cho dân Nam Việt tiến tai vi tường

Năm con nguyện trung thành Tứ phủ,

Trước hội đồng văn vũ bá quan.

Xin Quan nhỏ phước hiên nhan,

Độ cho đệ tử được bình an tháng ngày.

Sáu nguyện quan trắc giáng điện đình,

Độ cho đệ tử được đời đời vinh hoa

Bảy nguyện giáng phúc hà sa.

Bao nhiêu hạn ách tống ra hải hà.

Tám nguyện cho nam nữ trẻ già,

Đồng gia tín chủ lộc tài cứ hoan hân.

Chín nguyện giáng phúc lưu ân

Quan Tuần giáng phúc được mười phân vẹn mười

Quan độ cho tới nguyện thứ mười con con cháu cháu lộc tài đề đa

Bản hát Quan Lớn Tuần Tranh số 2

Việt sử chép Hùng triều thập bát

Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu

Dựng nền xã tắc dài lâu

Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn

Vừa gặp hội bể yên sóng lặng

Triệu bách thần gia tặng phong công

Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng

Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu

Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ

Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh

Bao phen đắp luỹ xây thành

Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng

Tài cung kiếm sánh cùng võ tử

Đức kinh luân ví tựa Trương Tô

Phong lưu mã thượng giang hồ

Cung cầm dưới nguyệt con đò trên sông

Chí đã quyết ngoài vòng cương toả

Hay đâu là duyên nợ ba sinh

Buồng xuân thiếu bạn chung tình

Thoả lòng tráng sĩ tài danh phỉ nguyền

Thề non nước nên duyên kì ngộ

Bỗng đâu ngờ mắc nợ oan khiên

Tin đâu khẩn cấp ban truyền

Quan quân tầm nã khắp miền sông tranh

Có ngờ đâu đất trời thay đổi,

Người anh hùng cổ nặng xiềng gông.

Ngài bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng

Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân

Trước cung điện, triều đình tra xét,

Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.

Ngài oan vì ong bướm lả lơi,

Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.

lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,

Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.

Hoàng bào đã nhuộm chàm xanh

Tấm thân đành nhẹ, nhục vinh lẽ thường

Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ

Hỏi trăng già có tỏ cho ai

Hỏi trăng hỏi gió hỏi trời

Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu

Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,

Vẫn vươn mình há ngại phong ba.

Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,

Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng

Thà thác vinh còn hơn sống nhục,

Sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn

Kiệt Cùng hiu hắt trăng non

Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng

Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt

Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong

Lòng riêng đã quyết với lòng

Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời

Rừng hoa cỏ thương người đã khuất

Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa

Nỗi oan chuyển động đất trời

Dây oan kia biến thành đôi bạch xà

Đất Ninh Giang tìm nhà hữu phúc

Thử lòng người trong lúc lánh thân

Tháng hai vừa tiết trung tuần

Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay

Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ

Đôi bạch xà tựa cửa hai bên

Long xà kì dị thảo hiền

Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà

Ba tháng sau đàn gà đã hết

Thương rắn hiền không biết lo sao

Khó khăn âu cũng tính liều

Ông bà nông lão sớm chiều đông tây

Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi

Hai ông bà mắc tội cửa công

Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng

Tậu gà nuôi rắn không dung tội này

Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể

Thương rắn thần tựa thể thương con

Khấu đầu tạ trước công môn

Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng

Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy

Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông

Long xà thoát xuống thuỷ cung

Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan

Khắp duyên hải sấm ran từ đấy

Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi

Những phường bán nước hại nòi

Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha

Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc

Tội gia hình bõ lúc sai ngoa

Lẽ thường tội báo oan gia

Hại nhân nhân hại sự đà không sai

Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,

Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,

Triều đình ra lệnh tiến binh,

Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.

Bỗng nổi trận phong lôi bão táp

Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh

Hỏi ra mới biết sự tình

Thiết bày hương án lễ trình bên sông

Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm

Khấn vừa xong gió lặng sóng yên

Uy linh sự đã hiển nhiên

Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông

Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,

Tước phong hầu truy tặng Đại vương,

Bảng vàng thánh thọ vô cương

Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.

Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,

Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,

Bao phen đắp luỹ xây thành,

Khắp miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.

Bản hát văn Quan Lớn Tuần Tranh số 3

Quyết mở đường dân an quôc thái

Dựng cơ đồ vạn đại cao sơn

Nhớ xưa tích cũ nhiệm màu

Quan Lớn Tuần trắc giá ngự đầu kim tinh

Tuổi niên thiếu đao binh yên ngựa

Sống vì đời thác trợ muôn dân

Sinh làm tướng thác làm thần

Dấu thiêng ghi để muôn dân phụng thờ

Gương đã tỏ soi đời càng tỏ

Trấn Ninh Giang vạn cổ anh linh

Bao phen đắp lũy xây thành

Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng

Quan Lớn Tuần đánh Đông dẹp Bắc

Đã quyết lòng đánh giặc ghi công

Làm trai đáng mặt anh hùng

Sông Thương đột phá treo cung non Đoài

Gương anh khí sáng ngời muôn thủa

Chí hào hùng rạng rỡ non sông

Vinh quang thay nòi giống tiên rồng

Muôn dân ghi nhớ Quan Tuần ngài tài cao.

Đền thờ Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

Quan Tuần Tranh được nhân dân thờ phụng tại nhiều đền phủ trên khắp miền Bắc, nhưng nổi bật nhất phải kể đến hai ngôi đền chính mang dấu ấn gắn liền với cuộc đời và sự hiển linh của Ngài.

Đền Tranh - Ninh Giang, Hải Dương. Đây là nơi Quan Lớn Đệ Ngũ trấn giữ và hiển thánh, đồng thời cũng được coi là đền chính có linh khí mạnh nhất. Lễ hội tại Đền Tranh hằng năm thu hút hàng vạn du khách thập phương về dâng hương, cầu bình an và xin lộc Quan. Không gian linh thiêng và sự ứng nghiệm được truyền tụng khiến nơi đây trở thành trung tâm tín ngưỡng quan trọng của vùng.

quan lon de ngu tuan tranh 11

Đền Kỳ Cùng - Lạng Sơn
Đền Kỳ Cùng là nơi ghi dấu sự lưu đày và tuẫn tiết của Ngài, gắn với nỗi oan khuất nổi tiếng trong truyền thuyết dân gian. Vì vậy, ngôi đền này được xem là nơi đặc biệt linh ứng trong các nghi lễ giải oan, giải hạn. Du khách đến đây thường cầu cho mọi buồn đau, trắc trở được hóa giải, mở ra sự hanh thông và sáng sủa.

quan lon de ngu tuan tranh 18

Ngoài hai đền chính, Quan Ngũ còn được thờ phụng rộng rãi tại nhiều đền phủ lớn ở Thái Bình, Vĩnh Bảo (Hải Phòng), Nam Định và khắp vùng duyên hải, thể hiện sự tôn kính sâu rộng của cộng đồng đối với Ngài.

Ngày tiệc Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

Ngày tiệc Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh được tổ chức vào hai dịp trọng đại trong năm:

  • Ngày Đản sinh: 14/2 Âm lịch, lễ hội diễn ra từ ngày 10–20/2. Đây là dịp con nhang đệ tử tề tựu đông đủ để mừng ngày Ngài giáng sinh, cầu mong may mắn, tài lộc và bình an.

  • Ngày Hóa: 25/5 Âm lịch, lễ chính kéo dài từ 20–26/5. Đây được xem là ngày đại lễ quan trọng nhất, nhằm tưởng nhớ sự tuẫn tiết, nỗi oan khuất và sự hiển linh của Ngài sau khi hóa thân.

Cả hai ngày tiệc đều mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc, giúp kết nối cộng đồng với vị quan lớn cai quản thủy bộ, mang lại sự che chở và hanh thông cho người hữu duyên.

quan lon de ngu tuan tranh 9

Giá trị thiêng liêng của Bản văn Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

Bản văn chầu Quan Đệ Ngũ là tác phẩm mang giá trị văn hóa tâm linh độc đáo, tái hiện toàn bộ hành trạng và công đức của Ngài. Nội dung văn chầu kể rõ:

  • Thân thế và sự nghiệp của vị quan lớn cai quản sông Tranh

  • Những chiến công dẹp giặc, trấn áp tà ma, bảo vệ dân lành

  • Nỗi oan khuất và sự tuẫn tiết thanh cao của Ngài

  • Quyền năng “thống lĩnh thiên địa binh”, thu chấp kim ngân, giải oan nghiệp

  • Đức công minh, ngay thẳng trong việc xét sớ trạng của trần gian

Giai điệu văn chầu của Quan Ngũ mạnh mẽ, khoáng đạt, thể hiện bản chất dũng mãnh của vị tướng thủy bộ. Khi Ngài giáng đồng, tiếng văn – tiếng trống hòa quyện cùng màn múa đao mạnh mẽ tạo nên không gian thiêng liêng, hào sảng và đầy uy lực. Không chỉ là lời ca tôn vinh công đức, văn chầu Quan Đệ Ngũ còn là cầu nối giúp người hành lễ cảm nhận được sự che chở, giải hạn, mở cung tài lộc và xua tan những điều không may trong cuộc sống.

quan lon de ngu tuan tranh 7

Vai trò của Quan Tuần Tranh trong nghi lễ hầu đồng

Trong nghi lễ hầu đồng, Quan Lớn Đệ Ngũ giữ vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt trong các buổi đại đàn hoặc mở phủ. Ngài là vị quan chủ chứng, thực hiện nhiều nghi thức tâm linh trọng yếu:

  • Chứng đàn mã - sớ trạng: Trước khi hóa mã, mọi sớ trạng đều phải được Ngài xem xét và chứng giám.

  • Lễ tấu hương, khai quang, thỉnh binh: Đây là những nghi thức mở đầu buổi lễ, mang ý nghĩa thanh lọc không gian và triệu thỉnh thần linh.

  • Múa thanh long đao: Khi giáng đồng, Ngài múa đao để trừ tà, trấn sát, bảo vệ đàn lễ và người dự hầu.

quan lon de ngu tuan tranh 3

Quan Đệ Ngũ đặc biệt linh ứng trong các việc:

  • Cầu tài lộc làm ăn

  • Giải oan nghiệp, hóa giải vận hạn

  • Cầu bình an khi đi lại đường sông nước

  • Buôn bán, kinh doanh liên quan đến vận tải, thủy hải sản hoặc nghề sông biển

Nhờ đức độ và uy quyền của Ngài, con nhang đệ tử luôn tin tưởng tìm đến để cầu mong sự hanh thông, vẹn toàn và bình an trong cuộc sống.

quan lon de ngu tuan tranh 10

Bản văn Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh không chỉ là lời văn cổ kính dùng trong nghi lễ hầu đồng, mà còn là di sản phản ánh niềm tin, lịch sử và tín ngưỡng của người Việt. Qua từng câu văn, hình tượng vị Quan trấn giữ sông Tranh hiện lên đầy oai phong, công minh, linh ứng đại diện cho sức mạnh của Thoải phủ và tinh thần anh dũng thời các Vua Hùng - Thục.

Nếu quý khách đang muốn lập điện thờ tứ phủ và tìm một đơn vị thiết kế thi công điện thờ Tứ Phủ uy tín, chuẩn phong thủy, đậm chất tâm linh Việt, hãy đến với Đồ Thờ Phú Cường. Chúng tôi chuyên cung cấp trọn gói nội thất điện thờ, từ tượng thờ, bàn thờ, hoành phi câu đối, long ngai, khám thờ... sơn son thếp vàng cao cấp, đảm bảo đồng bộ trang nghiêm chuẩn phong thủy.

Những thông tin mà Đồ Thờ Phú Cường chia sẻ chỉ mang tính chất tham khảo, giúp quý khách hiểu thêm về phong tục, nghi lễ truyền thống. Chúng tôi không bán sách văn khấn, không cung cấp lễ vật hay dịch vụ đi lễ. Phú Cường chỉ chuyên sản xuất và cung cấp đồ thờ, tượng Phật sơn son thếp vàng chất lượng cao - đúng chuẩn truyền thống của làng nghề Sơn Đồng.

Đặt Hàng Ngay - Tư Vấn Tận Tâm

Hotline: 0976 127 006
Website: dothosondong.com.vn
Cơ sở: Đồ Thờ Phú Cường – Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội

>>> Tham khảo thêm các bài viết liên quan:

Ngũ Vị Tôn Quan là ai? Ý nghĩa và vai trò trong tín ngưỡng Tứ Phủ Việt Nam

Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai là ai? Sự tích và vai trò trong Tứ Phủ Công Đồng